Một lần nữa công luận lại lên tiếng về đào tạo nhân lực y tế.
Có lẽ chưa nơi nào trên thế giới việc đào tạo nhân lực ngành y lại kỳ lạ
như ở nước ta: người người đào tạo, nhà nhà đào tạo, gần như không cần
chuẩn mực đầu vào, không cần chất lượng đầu ra.
1. Một bác sĩ chủ nhiệm bộ môn của một trường đại học y khoa ở TP.HCM
có lần than thở với chúng tôi: “Đào tạo nghề y bây giờ không khác gì đào
tạo nghề sửa máy tính, ống nước, đồng hồ. Người ta thấy đào tạo ngành y
“có ăn”, nên ai cũng lao vào đào tạo, chẳng cần biết y khoa là một
ngành nghề đặc biệt”.
Sinh viên ngành điều dưỡng đang đi thực tế ở một bệnh viện.
Nhận định này có cơ sở. Có dịp ghé thăm một trường trung cấp y dược tư
nhân ở TP.HCM, chúng tôi ngỡ ngàng khi chứng kiến cái gọi là phòng thực
tập của trường chỉ rộng độ 16m2 với hai bộ hình nộm cơ thể người và dăm
bức tranh trên tường mô tả đường đi hệ thống mạch máu, thần kinh. Cạnh
phòng này là phòng thực hành hoá phân tích, kiểm nghiệm, bào chế, hoá
dược, cũng không khá hơn: ngoài vài chiếc tủ đựng hoá chất trên tường,
trên bàn học chỉ là chục chiếc kính hiển vi. Thế mà trường này hàng năm
vẫn cho ra trường hàng trăm y sĩ, điều dưỡng và dược sĩ trung cấp!
Theo thống kê, đến cuối năm qua cả nước ta có 26 cơ sở đào tạo nhân lực
y tế trình độ đại học, 74 trường cao đẳng và 44 trường trung cấp và dạy
nghề. Nhưng nghịch lý thay, dù hiện nay các trường nhận vào và cho ra ồ
ạt một lượng lớn nhân lực ngành y, lực lượng nhân viên y tế ở nhiều
bệnh viện lớn vẫn thiếu. Bác sĩ Lê Hoàng Sơn, giám đốc bệnh viện Y học
cổ truyền TP.HCM, từng phát biểu: “Sinh viên ra trường ngày nay chất
lượng khá thấp. Nhận về phải đào tạo bổ sung rất mất công, có khi đào
tạo 6 – 7 tháng mà vẫn không làm được. Bệnh viện tham gia đào tạo sinh
viên cho các trường tư nhân, nhưng thú thật chúng tôi không dám tuyển
dụng”.
2. Lẽ ra không phải bây giờ, mà cần phải báo động về chuyện đào tạo
nhân lực ngành y từ lâu. Trước đây, chỉ có trường công lập mới được đào
tạo, nhưng từ khi có chủ trương xã hội hoá giáo dục, nhiều trường tư
nhân cũng tham gia, kết quả là chuẩn mực nhận vào mỗi nơi mỗi khác,
chương trình giảng dạy không ai kiểm định, chất lượng đầu ra khó đoán.
Sinh viên ra trường cầm mảnh bằng tốt nghiệp như nhau đi xin việc, nhưng
nhiều nơi lắc đầu không nhận, làm mất bao công sức học hành.
Nhưng nói đến đào tạo nhân lực ngành y mà chỉ đề cập đến trường tư nhân
thì cũng chưa sòng phẳng. Dư luận đã nhiều lần đề cập đến tình trạng
xuống cấp đào tạo trong các trường công lập khi sinh viên đi thực tập
như “cưỡi ngựa xem hoa” vì thiếu thầy dạy. Và kể cả khi có thầy cũng
không còn mấy người còn tâm huyết giảng dạy vì cuộc sống khó khăn, đồng
lương eo hẹp khiến giảng viên phải bươn chải làm thêm để kiếm sống. Rồi
ngay cả sinh viên của cùng một trường, nhưng sự phân biệt hệ đào tạo
cũng dẫn đến chất lượng học tập khác nhau. Một sinh viên y khoa hệ
chuyên tu từng tâm sự: “Nhiều người cứ khe khắt hệ chuyên tu, nhưng thực
tế nhiều người trong chúng tôi rất nỗ lực học tập. Tuy nhiên, muốn học
mà có được đâu. Đi thực tập bệnh viện, có giảng viên nói thẳng: “Tôi
không dạy sinh viên chuyên tu, mời các anh chị đi chỗ khác học”. Vậy
người ta nhận đào tạo chúng tôi để làm gì?”
Chất lượng đào tạo sinh viên y khoa có vấn đề, nhưng chất lượng đào tạo
sau đại học cũng không hơn bao nhiêu. Tại TP.HCM, dù tồn tại đại học Y
dược với bề dày giảng dạy hơn nửa thế kỷ, nhưng nhiều bác sĩ của thành
phố khi làm nghiên cứu sinh không chọn trường này mà lặn lội ra tận Hà
Nội, tốn tiền bạc và công sức hơn, nhưng một vài cơ sở đào tạo dễ dãi ở
đây lại giúp họ mau chóng thành tiến sĩ. Nếu quan sát kỹ, một số lĩnh
vực đào tạo y khoa ở nước ta cũng xa lạ với thế giới. Điển hình là tim
mạch can thiệp, lĩnh vực rất phát triển hiện nay, nhưng từ thầy đến trò
đều không theo bài bản nào. Một bác sĩ tim mạch can thiệp của Đức cho
biết, ở nước ngoài, để học tim mạch can thiệp, người học phải là bác sĩ
nội tim mạch, đầu tiên học trên mô hình, rồi làm trên thú vật, sau đó
mới dần dà làm trên người. Ở nước ta không như thế, cứ học và làm trên
người, học viên học xong thành “thợ” chứ không thể thành “thầy”. Thật
nguy hiểm, không biết có bao nhiêu ca tai biến đã xảy ra do kiểu đào tạo
“tay ngang” như thế này?
3. Thật lạ khi một ngành nghề liên quan đến việc chăm sóc sức khoẻ con
người lại không được kiểm soát và thẩm định chặt chẽ, sau một thời gian
dài buông lỏng, giờ đây người ta mới báo động và tính đến việc siết
chặt. Thiếu nhân lực ngành y là có thật, và bổ sung bằng gia tăng đào
tạo là hợp lý. Nhưng tại sao ngay từ đầu những ngành chức năng không
lường trước được mọi việc, cùng ngồi lại để tìm giải pháp để hạn chế bất
cập? Tư duy thiển cận và lợi ích riêng tư đã chi phối chính sách, gây
lãng phí bao nguồn lực của xã hội. Nhưng cái giá phải trả đâu chỉ như
thế. Hàng loạt ca tai biến y khoa, khiến bệnh nhân tàn phế và tử vong
khi vào bệnh viện, được giới truyền thông nêu lên thời gian qua có mối
liên hệ nào với việc đào tạo nhân lực y khoa dễ dãi hay không?